Cách Đánh Vần Tiếng Đức

Cách Đánh Vần Tiếng Đức

Tuy nhiên, tiếng Anh có nhiều từ có cách viết khác với cách đọc. Vậy, nếu người Mỹ đọc một từ tiếng Anh hoàn toàn mới, họ làm thế nào để phát âm tiếng Anh chính xác? Xin kể câu chuyện giữa tôi và một người bạn Mỹ.

Đánh vần Tiếng Anh trong giáo dục hiện nay

Tại Việt Nam, phương pháp Phonics đã được áp dụng ở một số trường quốc tế và các trung tâm ngoại ngữ. Tuy nhiên, Phonics vẫn chưa thực sự phổ biến để trở thành một phần chính trong chương trình giảng dạy Tiếng Anh của cả nước. Phần lớn các trường vẫn còn tập trung nhiều vào các phương pháp truyền thống (hay phương pháp Whole Word).

Thực tế, phương pháp Phonics rất được ưa chuộng trên thế giới. Thống kê cho thấy hơn 150 quốc gia đã lựa chọn Jolly Phonics – chương trình dạy-học Phonics hàng đầu đến từ Anh Quốc. Trong tương lai gần, việc dạy trẻ đánh vần Tiếng Anh sẽ ngày càng được chú trọng.

Light Up English – Tự hào đơn vị đào tạo số 1 về  chương trình Jolly Phonics tại Việt Nam

Light Up English tự hào là đơn vị tiên phong và số 1 về giảng dạy chương trình Jolly Phonics tại Việt Nam. Kể từ khi triển khai vào năm 2019 đến nay, Light Up English đã đào tạo được hơn 1000 học sinh trên cả nước theo cả hai hình thức online và offline. Nhờ đó, khả năng Tiếng Anh của các bé đã được cải thiện rõ rệt, đạt được hơn 90% feedback tốt từ phụ huynh.

Xem thêm: Jolly Phonics – Giải pháp cho vấn đề điểm thi cao nhưng khó giao tiếp tiếng Anh

Đánh vần Tiếng Anh không phải một sáng kiến của người Việt mà  có nguồn gốc từ Phonics – phương pháp dạy đọc viết Tiếng Anh của người bản xứ.  Light Up English nỗ lực lan tỏa phương pháp này thông qua việc giảng dạy chương trình dạy-học hàng đầu về Phonics – Jolly Phonics. Đây là hướng tiếp cận mới không chỉ giúp trẻ phát triển toàn diện các kỹ năng ngoại ngữ mà còn tạo nền tảng vững chắc cho việc học tiếng Anh của trẻ sau này.

Chính vì tiếng Việt dễ đọc như đã bàn kỳ trước nên tôi cho việc dạy đánh vần, kiểu “bê a ba huyền bà” hay “bờ a ba huyền bà” vốn thường thấy ở Việt Nam là hoàn toàn không cần thiết. Lý do:

o G/GI: Khi học các phụ âm và nguyên âm, học sinh đọc “g” là “gờ” và “i” là “i”, nhưng khi đánh vần chữ “gì”, đáng lẽ phải là “gờ i ghi huyền ghì” thì chúng ta lại bắt các em đánh vần theo kiểu “zờ i zi huyền zì”. Âm “gờ” tự nhiên lại biến thành “zờ”. Vấn đề càng rắc rối hơn khi đánh vần hai chữ “giặt gịa” (đọc như dịa) và “giạ lúa” đọc như dạ): Cũng một chữ “g” mà có đến hai cách phát âm khác nhau. Như vậy, nó là hai hay một? Nếu là một thì làm sao giải thích hiện tượng mâu thuẫn vừa nêu? Nếu là hai thì tại sao trong bảng chữ cái dạy các em lại không có “gi”?

o Q: Về phương diện ngữ âm, “q”, cũng như “c” và “k” đều đọc là /k/, giống nhau. Nhưng trong khi cách đánh vần những chữ bắt đầu bằng “c” và “k” không có vấn đề gì; cách đánh vần các chữ bắt đầu bằng “q” lại gây rắc rối không ít. Ví dụ, chữ “quốc” có ba cách đánh vần: quờ-ốc-quốc, quờ-uốc-quốc và q(cu)-uôc-quốc. Đó là chưa kể cách đánh vần đúng âm vị học hơn: kờ-uốc.

o A/Ă: Trong ngữ âm học, “ă” chỉ là âm “a” ngắn. Trên phương diện chính tả, tất cả những chữ “a” đứng trước chữ “y”, thật ra, là “ă”. Ví dụ, ở Việt Nam, người ta dạy trẻ em đánh vần chữ “mai” và “may” như sau: MAI: a – i – ai > mờ – ai – mai MAY: ă – i – ay > mờ – ay – may

o Â/Ơ: Hiện tượng tương tự cũng xảy ra với “ơ” và “â” (thật ra chỉ là “ơ” ngắn): Đánh vần chữ “Tây”, chẳng hạn, học sinh sẽ đọc:

Ớ – i – ây > tờ – ây – tây* Nó lạc hậu: Hầu như trong các ngôn ngữ lớn ở Tây phương hiện nay, không có nơi nào dạy trẻ em đánh vần như ở Việt Nam. Không phải họ không biết. Ngay từ xưa người Hy Lạp và La Mã cũng đã từng dạy theo phương pháp đánh vần xuôi rồi đánh vần ngược như vậy. Từ đầu thế kỷ 16, phương pháp này được truyền bá sang châu Âu. Năm 1527, Valentin Ickelsamer, một nhà giáo người Đức, biên soạn một cuốn nhan đề là Cách dạy đọc nhanh nhất (The Shortest Way to Reading), trong đó, phương pháp học vần được sử dụng để dạy đọc. Phương pháp này có ảnh hưởng rất lớn ở Anh, sau đó, từ cuối thế kỷ 18, cả ở Mỹ. Ở cả hai nơi, nó chiếm địa vị thống trị trong việc dạy học ít nhất cho đến thế kỷ 19, lúc một số nhà giáo dục bắt đầu lên tiếng hoài nghi hiệu quả của nó.

Từ đầu thế kỷ 20, một phương pháp dạy đọc mới ra đời, gọi là phương pháp đọc toàn chữ (whole-word reading method) hoặc nhìn-và-nói (look-and-say): Theo phương pháp này, học sinh đọc và cố gắng ghi nhớ cả chữ thay vì phân tích từng âm theo kiểu đánh vần ngày trước. Từ đó đến nay, phương pháp dạy đọc ở Mỹ thay đổi rất nhiều và rất nhanh, kéo theo sự thay đổi trên rất nhiều nơi trên thế giới.[3] Tuy nhiên, dù thay đổi đến mấy, cũng không có ai đề nghị quay lại kiểu dạy đọc theo lối học vần như ở Việt Nam. Dù người ta vẫn đề cao việc dạy các âm vị và khuôn vần (gọi là “phonics method”).

Không những trái tự nhiên, phức tạp, vô ích, tự mâu thuẫn và lạc hậu, việc dạy đánh vần, theo tôi, còn phản sư phạm.

Thứ nhất, tôi không tin cách tập đọc bằng biện pháp đánh vần là hiệu quả hơn những cách khác. Tuy nhiên, để khẳng định được điều này, cần có những cuộc thử nghiệm và kiểm nghiệm cụ thể, ví dụ, tìm hai lớp có những điều kiện và trình độ giống nhau, thử dạy tập đọc theo hai phương pháp khác nhau, sau đó, làm bài kiểm tra để có thể đánh giá chính xác hiệu quả của từng phương pháp. Trong khi chưa có những cuộc thử nghiệm và kiểm nghiệm như vậy, chúng ta chưa có quyền khẳng định biện pháp nào là tối ưu, kể cả phương pháp dạy đánh vần.

Thứ hai, ngay cả khi biện pháp dạy đọc theo lối đánh vần có hiệu quả nhanh hơn một chút, những ảnh hưởng tai hại do nó gây ra, theo tôi, cũng rất lớn. Tai hại đầu tiên là nó khiến học sinh chán học, hoặc ít nhất, không thấy thú vị gì trong việc quác miệng ra gào to những âm thanh hoàn toàn vô nghĩa như “mờ-a-ma-i-gờ-rét-may-sắc-máy” (máy) “Vờ-i-vi-ê-viê-tờ-viêt-nặng-Việt » (Việt). Tai hại thứ hai là nó làm học sinh trở thành thụ động, và do đó, mất hẳn tính sáng tạo. Các em được thầy cô giáo dẫn dắt từng li từng tí. Từng vần. Từng phụ âm đầu. Từng thanh điệu. Và từng chữ. Việc dẫn dắt cẩn thận, chu đáo, chi li đến độ trí óc của các em không cần và cũng không thể làm bất cứ việc gì khác. Trừ việc nhớ.

Trước khi phân tích tính chất phản sư phạm ấy, xin thử nhớ lại hình ảnh các lớp mẫu giáo của chúng ta thời thơ ấu. Có phải chúng như tình huống 1″ dưới đây không?

Cô giáo viết lên bảng chữ “Bà” rồi đọc: –  “À-bờ a ba huyền bà” Học sinh đọc theo: –  “À – bờ a ba huyền bà” Cô giáo viết chữ “nội” rồi đọc: –  “Ội – nờ ôi nôi nặng nội” Học sinh đọc theo: –  “Ội – nờ ôi nôi nặng nội” Cứ thế, kéo dài từ chữ này đến chữ khác. Lâu lâu cô giáo lại hỏi: –  “Chữ ‘bà’ đánh vần sao, các em?” Học sinh lại gào lên: –  “À-bờ a ba huyền bà” Cứ thế, từ giờ này sang giờ khác. Cho đến lúc các em tập đánh vần hết các chữ quy định trong sách giáo khoa.

Lợi ích của việc cho bé học đánh vần Tiếng Anh

Việc dạy trẻ học đánh vần Tiếng Anh từ sớm mang lại nhiều lợi ích quan trọng trong việc tạo nền tảng cho sự phát triển ngôn ngữ lâu dài của trẻ.

Xem thêm: Sự Khác Nhau Giữa Học Ngữ Âm (Phonics) Và Phiên Âm (IPA)