Nhà Hàng Nguyễn Khánh Toàn

Nhà Hàng Nguyễn Khánh Toàn

Điểm đánh giá, review hiện tại cho địa điểm Nhà Sách Nguyễn Du, 58 Nguyễn Du, Long Khánh, Đồng Nai là 2,1/5. Những đánh giá này được tổng hợp và cập nhật vào lúc 17/09/2023 trên tổng đài TimDuongDi.Com.

Các công trình khoa học tiêu biểu

Đây là tên dùng để gọi một nhóm vật dụng, chữ Hán tự ghi là bài, nghĩa là “cái bảng, mảnh ván đề chữ làm dấu hiệu để yết thị; chiếc thẻ dùng để làm tin”. Từ tên chung là thẻ bài, tùy theo chất liệu làm nên chiếc thẻ mà có sự phân biệt là: kim bài (bài bằng vàng), ngân bài (bài bằng bạc), mộc bài (bài bằng gỗ), thạch bài (bài bằng đá)...; hay tùy theo công năng của từng chiếc thẻ mà gọi là: bội bài (bài để đeo), tín bài (bài làm tín vật), lệnh bài (bài giao việc)...

Những thẻ bài này là vật dụng đặc biệt, dùng để ghi công hay để phân biệt danh tính, phẩm hàm, địa vị, chức phận của các hạng quý tộc, quan binh thời Nguyễn. Theo khảo cứu của Đặng Ngọc Oánh trong bài Les distintions honorifiques annamites (B.A.V.H. No.4/1915) và của L. Sogny trong bài Les plaquettes des dignitaires et des mandarins à la Cour d’Annam (B.A.V.H. No.3/1926), thẻ bài gồm hai loại: một loại là những huân chương, huy chương để tưởng thưởng công trạng hay huy chương danh dự của triều đình ban tặng cho các bậc vương công, đại thần, binh sĩ và cả những người nước ngoài phụng sự cho triều Nguyễn. Loại kia là những “phục trang” đặc biệt để phân biệt địa vị, phẩm hàm của những hạng người khác nhau trong xã hội. Ngoài ra, còn có những chiếc thẻ bài có giá trị như giấy thông hành, dùng để ra vào nơi cung cấm, hay được dùng như giấy ủy nhiệm của quan lại cấp trên giao việc cho thuộc hạ.

Khởi thủy, vua Gia Long (1802 - 1820) cấp cho các quan trong Cơ Mật Viện một ngân bài (bài bằng bạc) để ra vào Đại Nội. Năm 1834, vua Minh Mạng (1820 - 1841) bắt đầu cho làm các thẻ bài bằng vàng, gọi là kim bài, có đề 4 chữ Hán: Cơ Mật Đại Thần để ban cho các quan lại cao cấp được sung vào Cơ Mật Viện. Tùy theo chức tước và phận sự, các thẻ bài do triều Nguyễn ban tặng cho các quan được làm bằng vàng, bằng bạc mạ vàng hay bằng bạc. Từ năm Thành Thái thứ 16 (1906) trở đi, quan lại văn võ từ hàm thất phẩm trở lên nhận thẻ bài làm bằng ngà, từ thất phẩm trở xuống nhận thẻ bài làm bằng sừng trâu. Bài của quân lính phục vụ trong Đại Nội thì làm bằng chì, sau đổi làm bằng gỗ mun.(*)

Quý nhất trong các loại thẻ bài chính là các kim bài của các bậc đế hậu hay quý tộc cao cấp. Đây là những món đồ trang sức của vua chúa, đồng thời cũng là vật thể hiện địa vị và đẳng cấp của người sở hữu chúng. Ngoài kim bài,vua, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa và các vương tôn còn đeo kim khánh và ngọc khánh. Nhà vua còn dùng kim bài, kim khánh và ngọc khánh như vật phong tặng, quà kỷ niệm hay vật ân thưởng cho quý tộc và quan lại cao cấp trong những dịp đặc biệt.

Kim bài của các vua triều Nguyễn thường có hình chữ nhật (8,5cm x 5cm), có 4 chữ Hán Thái bình thiên tử bằng vàng chạm nỗi và nạm 10 viên kim cương. Ngoài ra còn có loại kim bài hạng hai, khắc 4 chữ Hán Đại bang duy bình bằng vàng chạm nỗi và nạm 10 hồng ngọc, xung quanh có viền hoa văn hình lưỡng long khắc chìm.

Kim khánh làm bằng vàng có đính các hạt trân châu, mã não, là thứ huy chương quan trọng bậc nhất của triều Nguyễn. Dưới triều Gia Long và Minh Mạng, kim khánh chỉ dành riêng cho các thành viên hoàng gia và các quan lại có hàm đại học sĩ. Dưới triều Thiệu Trị (1841 - 1847) và Tự Đức (1848 - 1883) kim khánh gồm hai hạng: đại kim khánh và kim khánh. Từ năm 1885 triều đình đổi thành bốn hạng: đại kim khánh có đề 4 chữ Hán Báo nghĩa thù huân; trung kim khánh (hình dáng như đại kim khánh như nhẹ hơn); kim khánh có đề 4 chữ Hán Sanh thiện thượng công và tiểu kim khánh có đề 4 chữ Hán Lao năng khả tưởng. Mặt sau các kim khánh thường khắc ghi niên hiệu của triều vua cho chế tác và ban tặng kim khánh. Năm Thành Thái thứ 2 (1900), triều đình bỏ hạng trung kim khánh và thiết lập hệ thống kim khánh mới gồm ba hạng: nhất hạng kim khánh, nhị hạng kim khánh và tam hạng kim khánh dùng để trao trặng cho quần thần và cho cả người Pháp. Mặt sau các kim khánh này có khắc các chữ Hán Đại Nam hoàng đế sắc tứ. Đến triều Khải Định (1916 - 1925), kim khánh làm bằng vàng, có đề 4 chữ Khải Định ân tứ, được đựng trong một hộp bạc, chạm trỗ hoa văn lưỡng long triều nhật, chính giữa mặt trong có một ô hình trái xoan đề 4 chữ Hán Khải Định niên tạo và phía dưới có chữ ký nghệ nhân chế tác ở bên trái. Đối với các kim khánh ban cho phái nữ thì xung quanh các Hán tự có trang trí 2 hình chim phụng.(*)

Ngọc khánh có hình dáng tương tự như kim khánh nhưng được làm bằng ngọc quý, chủ yếu làm bằng cẩm thạch. Mặt trước ngọc khánh thường khắc 4 chữ Hán Thụ thiên vĩnh mệnh. Mặt sau khác niên hiệu của vị vua đang trị vì vào thời điểm ngọc khánh được chế tác hay ban tặng.

Việc chế tác các kim bài và kim khánh dưới thời Nguyễn được giao cho Kim ngân tượng cục thực hiện. Kim ngân tượng cục do vua Minh Mạng cho lập vào năm 1834, trực thuộc Sở Nội tạo. Đây là nơi trưng tập các thợ thủ công tài giỏi trong cả nước về nghề kim hoàn. Họ được tuyển vào làm việc ở Kim ngân tượng cục này để chuyên chế tác các vật dụng bằng vàng và bạc, cung ứng cho nhu cầu của hoàng gia và triều đình. Ngoài Kim ngân tượng cục, triều Nguyễn còn cho mở thêm hai tượng cục khác, chuyên chế tác các vật dụng liên quan đến vàng bạc. Đó là Kim mạo tượng ty chuyên chế tạo mũ mão bằng vàng cho vua và hoàng gia và Kim tương tượng ty chuyên chế tạo các vật phẩm có thếp vàng.(*)

Kim bài khắc các chữ An Tĩnh Công rao bán trên eBay.

Vua, hoàng hậu và các thành viên hoàng gia thường mang kim bài, kim khánh, ngọc khánh... trong các dịp thiết đại triều, trong những lễ lạt quan trọng của triều đình và trong các dịp nghinh đón quốc khách. Riêng vua Khải Định, thì ngoài kim bài, kim khánh và ngọc khánh, nhà vua còn đeo thêm các huy chương như Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh… mà chính phủ Pháp trao tặng, nhất là trong các dịp lễ lạt có sự hiện diện của quan lại mẫu quốc.

165 năm sau ngày nhà Nguyễn cáo chung, phần lớn kim bài, kim khánh, ngọc khánh... của triều Nguyễn đã trở thành cổ vật trong các bảo tàng và sưu tập tư nhân ở nước ngoài. Trong một bài viết mới công bố gần đây, nhà nghiên cứu Philippe Truong (hiện sống ở Pháp) cho biết: Cách nay hai tháng, trên mạng eBay có đưa ra đấu giá một thẻ bài bằng bạc mạ vàng của An Tĩnh Công, giá bán cuối cùng lên đến 1919 euro. Ngoài ra, trong sưu tập huy chương của đại sứ Ý Antonio Benedetto Spada, hiện đang trưng bày tại bảo tàng Légion d’Honneur (Paris), có trưng bày 8 kim bài, 6 ngân bài và một số bài bằng ngà và sừng, kim khánh, ngân khánh, kim bội và kim tiền thời Nguyễn. Trong số đó, đáng chú ý nhất là kim bài khắc 4 chữ Hán Đại bang duy bình của vua Khải Định làm bằng vàng nạm 10 hồng ngọc, viền hoa văn lưỡng long và đại kim khánh bằng vàng có đề bốn chữ Hán Khải Định ân tứ, chứa trong một hộp bạc, khắc hoa văn lưỡng long triều nhật, chính giữa có một ô hình trái xoan đề chữ Khải Định niên tạo và chữ ký của nghệ nhân khắc ở phía dưới bên trái.(*)

Giới khảo cứu và dân chơi cổ ngoạn trong nước hiếm khi có dịp tận mắt chiêm ngưỡng những trân bảo ấy, may mắn lắm cũng chỉ nhìn thấy hình dáng “của hiếm” trong những catalogue in ấn ở ngoại quốc mà thôi. Âu đó cũng là một thiệt thòi cho giới sưu tầm và ưa chuộng cổ vật nước nhà vậy.

(*) Các thông tin này trích từ bài viết “Vài bảo vât nhà Nguyễn tại Âu châu” của nhà nghiên cứu Philippe Truong.

Nhập tên 3 con vật (bò, chim, chó, chuột, gà, heo, hổ, mèo, ngựa, thỏ, trâu, vịt, voi) theo thứ tự trên ảnh, không bao gồm con vật được khoanh màu xanh, viết liền, không dấu. (Ví dụ: chogavit | voibongua | vitgachim ,...)

Cuộc đời của cô giáo Trần Thị Khánh Toàn là một dòng ngược xuôi, lúc ra Bắc, khi vào Nam, để tìm được điểm dừng chân trong sự nghiệp nhà giáo ở mảnh đất Vũng Tàu xinh đẹp. Dù ngược xuôi, cô vẫn "một dòng" dành tất cả nhiệt huyết, tài năng, sự bền bỉ cống hiến trong hành trình “tải văn, tải đạo”.

Đầu năm 1981, sau khi tốt nghiệp sư phạm, cô trở thành giáo viên của trường Phước Lễ A, Châu Thành (Đồng Nai). Cô để lại dấu ấn bởi phương pháp giảng dạy độc đáo, trở thành thủ khoa của tỉnh Đồng Nai trong kỳ thi giáo viên giỏi năm ấy với bài giảng “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi.

Năm 1983, cô giáo trẻ Khánh Toàn “theo chồng về dinh”. Trên “đất học” Nghệ Tĩnh, cô đã tỏa sáng với nhiều thành tích nổi bật: hai lần thủ khoa trong kỳ thi giáo viên giỏi cấp tỉnh.

Lần thứ nhất vào năm 1989 trong cuộc thi tổ chức tại thị xã Hà Tĩnh (nay là thành phố Hà Tĩnh) - cô giành điểm cao nhất cuộc thi với bài giảng “Chiếc nhẫn bằng thép” của tác giả K.G.Paustovsky - nhà văn Nga nổi tiếng, từng được đề cử Nobel văn học năm 1965. Lần thứ 2, vào năm 1993 cô đạt thủ khoa với số điểm tuyệt đối 20/20, tạo tiếng vang lớn trong cuộc thi trí tuệ tập trung nhiều giáo viên giỏi của tỉnh Nghệ An, tại trường Lê Lợi, thành phố Vinh.

Cuối năm 1993, cô Trần Khánh Toàn rời quê hương, chuyển công tác vào Bà Rịa - Vũng Tàu, được nhận vào Trường THPT chuyên Lê Quý Đôn - vừa thành lập được 2 năm. Tại đây, cô trở thành “thế hệ vàng” đầu tiên của trường và có 23 năm cống hiến.

Trong một tập thể tài năng, đoàn kết, nhiệt huyết, cô Khánh Toàn được tạo điều kiện để hoàn thành công việc của mình: dạy các lớp chuyên Văn, phụ trách bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi thi quốc gia, thanh tra chuyên môn của Sở GD-ĐT, tham gia các hoạt động đoàn thể của trường. Công việc nào cô cũng “tròn vai”, “cháy” hết mình. Cô Khánh Toàn đã mang về cho trường nhiều thành tích xuất sắc như: Huy chương Vàng hội diễn của ngành, thủ khoa giáo viên giỏi cấp tỉnh với số điểm tuyệt đối 20/20 của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; 2 tiết dạy toàn quốc xuất sắc do Bộ GD-ĐT tổ chức nhằm ứng dụng CNTT và đổi mới phương pháp dạy học. Đó là dấu ấn năm 2004, tại trường chuyên Lương Thế Vinh tỉnh Đồng Nai, với bài giảng “Thương vợ” của Trần Tế Xương và năm 2015 tại Bà Rịa - Vũng Tàu với bài giảng “Vợ nhặt” của Kim Lân. Bài giảng của cô để lại ấn tượng bởi cách thiết kế thông minh, linh hoạt, đầy bất ngờ, kết hợp với chất giọng ấm áp, có sức truyền cảm tạo  hứng thú, cuốn hút người nghe của cô giáo tài hoa.

Nhờ được học những giờ Văn như vậy, học sinh của cô Khánh Toàn đã đưa về cho trường chuyên Lê Quý Đôn hàng chục giải thưởng cao nhất trong các kỳ thi lớn: Olympic, học sinh giỏi quốc gia, góp phần làm nên thương hiệu Trường chuyên Lê Quý Đôn. Sự cống hiến ấy của cô Khánh Toàn cũng được ghi nhận qua nhiều Bằng khen của UBND tỉnh Đồng Nai, Nghệ An, Bà Rịa -  Vũng Tàu, Bộ GD-ĐT…

Cuộc đời của cô giáo Khánh Toàn cũng có những thăng trầm riêng. Năm 2007, cô phát hiện mang bệnh ung thư. Trong cơn bạo bệnh, cô càng hiểu niềm hạnh phúc của nghề giáo khi được sự quan tâm của phụ huynh, đồng nghiệp và đặc biệt là học sinh trường chuyên Lê Qúy Đôn. Các em đã xếp tặng cô 9.000 con hạc giấy thay ước ao, cầu mong cô khỏi bệnh. Như một phép màu, cô đã vượt qua bệnh tật và tiếp tục sự nghiệp trồng người. Cô đã xây dựng thêm 2 cơ sở giáo dục: Trung tâm Dạy kèm văn hóa và Trung tâm Ngoại ngữ Khánh Toàn tại 58 - 60 đường Cô Giang, phường 4, TP. Vũng Tàu. Đây là hai địa chỉ tin cậy cho hàng ngàn học sinh trong và ngoài tỉnh.

PGS.TS văn học Vũ Nho đánh giá: "Khánh Toàn có một tài năng thiên bẩm về cảm thụ văn học. Nhà cô ấy rất nhiều sách, đặc biệt mê văn chương. Khánh Toàn nói năng gãy gọn, truyền cảm, tâm hồn thơ ca, có kỹ năng cao trong việc sử dụng thông tin khi giảng bài, do vậy học sinh rất mê. Một lần đứng lớp là một lần truyền cảm hứng”. Theo PGS.TS Vũ Nho, với giáo dục phổ thông hiện nay, những cô giáo có năng lượng truyền thụ kiến thức, truyền cảm hứng như cô giáo Trần Khánh Toàn rất hiếm. Không phải tự nhiên, ở Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu phụ huynh từ lâu đã truyền nhau câu “Văn cô Toàn, toán thầy Bút”. Được học Văn cô Khánh Toàn, học Toán thầy Nguyễn Viết Bút là niềm tự hào của mọi học sinh.

Cô Trần Thị Khánh Toàn tâm sự: “Tôi yêu văn chương, mong truyền trao vẻ đẹp ấy cho học sinh bởi “Văn học là nhân học”. Học Văn, các em sẽ có cái nhìn tinh tế hơn, tâm hồn được nuôi lớn bởi cái đẹp của văn chương và ngọn lửa ấy sẽ còn mãi trong tâm hồn học sinh, thắp sáng cuộc đời. Tôi tin cách dạy biết vận dụng công nghệ có phương pháp dạy học phù hợp, biết tổ chức lớp học giúp học sinh chủ động khám phá, biết truyền cảm hứng… học sinh vẫn mãi yêu môn Văn, mong đợi học Văn”.

Hằng năm, cô giáo Trần Khánh Toàn miệt mài chung tay với MTTQ tỉnh trong công việc thiện nguyện, nhằm lan tỏa yêu thương đến nhiều số phận bất hạnh, người mù, người bệnh ung thư, người già không nơi nương tựa, học sinh nghèo, mồ côi… Trong đại dịch COVID-19, cô Khánh Toàn đã tặng hàng trăm phần quà ủng hộ người nghèo. Cô đã được UBND TP. Vũng Tàu tặng Giấy khen nhằm ghi nhận tấm lòng nhân ái của một cô giáo giỏi nghề, nặng ân tình dành cho những cuộc đời kém may mắn.

“Tải văn”, “tải đạo” suy cho cùng đó là hành trình vì cái đẹp. Đó là mục đích sống và cô giáo Trần Khánh Toàn đã và đang theo đuổi.