Theo thông kê, đa số Đệm Thuận là mệnh Kim và Tên Thảo là mệnh Hỏa.
Danh sách những cách viết trong Hán Việt của tên Thuận Phát
Danh sách 8 cách viết của tên Thuận Phát đã ẩn. Mở khóa để xem.
Phiên dịch là một hoạt động ngôn ngữ có từ xa xưa. ở đầu có iện tượng song ngữ hay đa ngữ thì ở đó có phiên dịch. trong iảng dạy và học tập ngoại ngữ, phiên dịch như là một phần hông thể thiếu vắng từ một bảng đối chiếu từ ngữ đến một lời iải thích mẫu câu trong giáo trình học ngoại ngữ đều cần đến hiên dịch.
Vai trò của phiên dịch trong hoạt động ngôn ngữ hết sức to ớn. Nó xảy ra hàng ngày, hàng giờ và ở khắp mọi nơi trên thế iới. Tuy nó chưa trở thành một ngành khoa học độc lập, đủ rạnh, nhưng không vì thế mà thiếu cơ sở lý luận soi sáng trong uá trình hoạt động.
Tập sách đơn sơ này thu thập những ý kiến của các học giả rong ngoài nước, cộng thêm quan điểm cá nhân người biên soạn ế phiên dịch, nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản nhất cho người học.
Trong quá trình biên soạn tác giả quyển sách đã sử dụng một ổ cứ liệu, ngữ liệu của các học giả uy tín trong và ngoài nước. rong các tài liệu từng dùng làm giáo trình đại học.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn
Phiên dịch và phiên dịch Việt-Hán, Hán-Việt ra đời rong thời điểm chưa thật thuận lợi cả về phương diện chủ quan ăn khách quan. Vì thế sai sót là điều khó tránh khỏi. Xin được hi giáo.
Cũng giống như Trùng Khánh có tên gọi khác là Sơn Thành, Thành Đô có tên Dung Thành, Côn Minh có tên Xuân Thành, Vũ Hán còn được gọi là Giang Thành, ngoài ra còn được gọi bằng một cái tên khác là Hỏa Lò.
Sở dĩ Vũ Hán được gọi là Giang Thành vì nơi đây có rất nhiều con sông lớn chảy qua, trong đó lớn nhất là Trường Giang còn gọi là sông Dương Tử và Hán Giang còn gọi là sông Hán Thủy. Sông Dương Tử chia thành phố Vũ Hán làm hai nửa, người dân sống bên bờ Hán Dương và Hán Khẩu được gọi là người của phương Bắc, người dân sống bên bờ Vũ Xương lại được gọi là người phương Nam.
Có thể bạn sẽ thắc mắc: Sông Dương Tử chảy qua rất nhiều thành phố ở Trung Quốc, nhưng tại sao chỉ riêng Vũ Hán được gọi là Giang Thành? Nguyên nhân chính vì nơi đây có Hoàng Hạc Lâu, một thắng cảnh nổi tiếng ở Vũ Hán gắn liền với sông Dương Tử và là một trong “Tứ đại danh lâu” của Trung Hoa.
Hoàng Hạc Lâu trong một tác phẩm hội họa thời Minh (ảnh: Wikimedia Commons).
Xưa kia, khi Lý Bạch tới Vũ Hán du ngoạn, ông đã cùng Sử lang trung uống rượu trên lầu Hoàng Hạc, vừa uống rượu vừa thưởng thức âm nhạc. Trong lúc vui vẻ, thi tiên Lý Bạch đã cao hứng xuất khẩu thành thơ. Bài thơ có tiêu đề: “Dữ sử lang trung khâm thính hoàng hạc lâu thượng xuy địch” (cùng quan Lang trung họ Sử uống rượu nghe sáo trên lầu Hoàng Hạc).
Người Vũ Hán rất thích cái tên Giang Thành nên tự gọi mình là người Giang Thành. Ngoài tên gọi này, Vũ Hán còn có một tên khác, nguồn gốc của nó phản ánh lịch sử phát triển và văn hóa nơi đây.
Khí hậu và thời tiết ở Vũ Hán mang nét đặc trưng rõ nét nhất của khí hậu Trung Hoa: Mùa đông lạnh giá, mùa hè đổ lửa, hai mùa xuân thu mát mẻ lại qua nhanh. Sống ở nơi này, tuy con người có thể tận hưởng khí hậu phong phú của bốn mùa trong năm, nhưng khắc phục được cái khắc nghiệt của hai mùa hè và đông cũng hết sức khó khăn.
Mặc dù vậy, khi ngắm nhìn dòng Trường Giang sóng cuộn và Đông Hồ lãng đãng khói sương, chúng ta mới nhận ra rằng tạo hóa đã ban cho Giang Thành một ân sủng. Vào buổi chiều tà, đứng trên cầu Trường Giang nhìn sắc hồng bên sông, dạo qua công viên ven bờ sẽ thấy Vũ Hán vẫn là nơi thật xinh đẹp, dễ thương, chất phác, hiền hòa.
Vũ Hán do ba thị trấn là Vũ Xương, Hán Dương, và Hán Khẩu hợp thành, được phân chia thành khu văn hóa, kinh tế, chính trị. Lịch sử, quy mô, và tốc độ phát triển của mỗi trấn lại có nét đặc sắc khác nhau. Tên gọi Vũ Xương bắt đầu cuối thời Đông Hán, đầu Tam Quốc. Để chiếm được Kinh Châu, năm 221 Tôn Quyền quyết định rời đô từ Kiến Nghiệp (nay là Nam Kinh) tới huyện Ngạc và đổi tên là Vũ Xương với ý nghĩa “Dĩ vũ trì quốc nhi xương” nghĩa là: lấy trị quốc làm đất nước hưng thịnh. Vì vậy tên gọi Vũ Xương và nay là thành phố Ngạc Châu đổi tên gọi cho nhau. Từ các cuộc khai quật khảo cổ học, những địa danh như “Thủy quả hồ”, “Phóng Ưng đài”, “Cầu Nam hồ lão nhân”… đều là nơi người cổ đại sinh sống.
Ngành thủ công mỹ nghệ Vũ Xương thời xưa rất phát triển, chủ yếu là đóng tàu, luyện kim và đúc tiền. Đồ gốm Vũ Xương được gọi là đồ gốm Cảnh Thanh. Ngoài ra, một sự việc đáng đề cập nhất ở Vũ Xương là sự phá hủy và xây mới lại nhiều lần của Hoàng Hạc Lâu. Cuối thời Ðông Hán thế kỷ thứ 3, vua nhà Ðông Hán nhu nhược bị các lộng thần chèn ép. Tào Tháo lấy danh nghĩa phò nhà Hán mà chiếm giữ phía Bắc, sau lập thành nhà Ngụy, Lưu Bị xưng là tôn thất nhà Hán mà lập ra nhà Thục, chiếm giữ miền Tây Nam, Tôn Quyền lui về Giang Ðông lập ra nhà Ngô, sau xưng đế và lấy hiệu Ngô Hoàng Vũ.
Thế Tam Quốc phân chia từ đó, thành Kinh Châu thuộc về Ðông Ngô nhưng Lưu Bị đã khéo chiếm trước và nói là “mượn” tạm để có đất dung thân, sau này lại giao cho Quan Vũ. Vì khinh thường quân địch nên Quan Vũ thiệt mạng và để mất Kinh Châu về tay Ðông Ngô. Năm 223, Tôn Quyền ra lệnh xây thành Giang Hạ (Hạ Khẩu) bên ngã ba sông Trường Giang và Hán Thủy để đóng quân. Trong cái thế Tam Quốc thời đó, Hạ Khẩu là một thành trì chiến lược rất quan trọng vì cả ba nước Ngụy – Thục – Ngô đều cho rằng phe nào chiếm được Hạ Khẩu thì đó là bên thắng cuộc.
Để theo dõi tình hình, Tôn Quyền cho xây tháp quan sát trên ngọn đồi nhỏ cạnh sông Trường Giang, phía tây nam của thành Giang Hạ. Ðứng trên tháp, người ta có thể quan sát được thuyền bè di chuyển trên sông Hán Thủy và phía Tây của Trường Giang. Tháp quan sát này được đặt tên là Hoàng Hạc Lâu. Nơi đây đã trải qua hơn mười lần xây dựng kể từ thời Tam Quốc, mỗi lần tái thiết lại thể hiện một phong cách riêng, phản ánh phong cách kiến trúc và đặc điểm của các thời đại khác nhau.
Trải qua bao thăng trầm, Hoàng Hạc Lâu đã được trùng tu và xây dựng lại nhiều lần. Triều đại nào của Trung Hoa cũng cho xây lại Hoàng Hạc Lâu, không biết có phải vì bài thơ của Thôi Hiệu hay không? Nhưng rõ ràng là ở Giang Hạ, cuộc sống của người dân đất Sở xưa kia không thể thiếu được Hoàng Hạc Lâu, có lẽ bởi không ai muốn để Hạc vàng bay đi mất…
Kiến trúc Hoàng Hạc Lâu thế kỷ 19 (ảnh: Wikimedia Commons).
Nguồn gốc của Hán Dương và Hán Thủy có liên quan mật thiết với nhau. Người xưa có câu: “Thủy bắc vi dương, sơn nam vi dương”. Thời cổ đại, vùng đất ở phía bắc Hán Thủy và phía nam Quy Sơn là nơi có được nhiều ánh sáng mặt trời nhất nên cổ nhân gọi là Hán Dương.
Vào năm 606 sau Công nguyên, năm thứ hai niên hiệu Đại Nghiệp thời Tùy Dạng Đế, huyện Hàm Tân được đổi thành Hàm Dương. Thời nhà Đường, sau khi chính quyền quận chuyển đến thành phố Hán Dương, nơi đây mới nhanh chóng phát triển hưng thịnh.
Ở Hán Dương, khu vực bãi Anh Vũ Châu từng là nơi tập trung tàu buôn ở sông Dương Tử trong các triều đại Đường, Tống, Nguyên. Đây cũng là điểm thu hút rất đông khách du lịch. Chùa Quy Nguyên ở Hán Dương là một trong những thánh địa Phật giáo được bảo tồn nguyên vẹn nhất ở Vũ Hán.
Những công trình kiến trúc ở Vũ Xương và Hán Dương được xây dựng trong cùng thời kỳ đều có lịch sử khoảng 1800 năm. Trong lịch sử, Hán Khẩu và Hán Dương có khoảng thời gian phát triển đồng bộ tương đối dài. Đến năm Thành Hóa thứ 10 thời nhà Minh (năm 1474 sau Công nguyên), sông Hán Thủy đã thay đổi dòng chảy 8 lần, từ đó dòng chảy từ Quy Sơn Bắc Lộc nhập vào Dương Tử giang. Hán Dương và Hán Khẩu có rất nhiều kiến trúc tường, thành, từng là quận, huyện trong các thời kỳ lịch sử.
Sau đó, Hán Khẩu nhanh chóng trở thành cảng thương mại với danh tiếng và tốc độ phát triển vượt xa so với Vũ Xương và Hán Dương. Vào cuối triều đại nhà Minh cho đến đầu thời nhà Thanh, Hán Khẩu cùng trấn Chu Sơn của Hà Nam, trấn Phật Sơn của Quảng Đông, và trấn Cảnh Đức ở Giang Tây trở thành bốn trấn nổi tiếng của Trung Quốc, được mệnh danh là “Chicago phương Đông”. Ngành thương mại và vận tải ở hải cảng của Hán Khẩu khá phát triển, trở thành cảng khẩu hưng thịnh số một Trung Quốc.
Vào năm 1905 cuối triều Thanh, thống đốc Trương Chi Động của Hồ Quảng cho xây dựng đê Trương Công ở Hán Khẩu. Con đê làm hạ thấp mức nước của sông ngòi ở khu vực xung quanh, dần dần tạo thành vùng đất liền. Nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng vùng đất Hán Khẩu nhỏ hẹp ban đầu và được coi là dấu tích không thể mờ nhạt trong lịch sử phát triển của Vũ Hán.
Đầu năm 1927, chính quyền đã sáp nhập Vũ Xương và Hán Khẩu, đồng thời đặt tên là Vũ Hán. Như vậy, thành phố Vũ Hán hiện đại là sự kết hợp của Vũ Xương, Hán Khẩu và Hán Dương.
Thời tiết Vũ Hán vào mùa hè mang lại cho người ta cảm giác vô cùng khó chịu. Nguyên vì Vũ Hán có nhiều sông ngòi, diện tích mặt nước lớn, làm lượng hơi nước bốc hơi lớn và độ ẩm trong không khí tăng lên khi mặt trời chiếu sáng vào ban ngày. Từng đợt khí nóng bao bọc giống như chiếc khẩu trang lớn bao trùm thành phố, một mặt làm giảm tốc độ bức xạ của nhiệt lượng lên không trung, từ đó làm giảm nhiệt độ không khí trong phòng, mặt khác làm bề mặt cơ thể không dễ tản nhiệt, giống như đang ở trong phòng tắm hơi, mồ hôi toát ra nhiều, oi bức khó chịu như đang trong “lò lửa” nên mới có tên gọi này.
Hiện nay nhiều người dùng sai từ Hán - Việt vì không hiểu nghĩa của chúng chứ không phải vì không biết chữ Hán. Chúng ta chỉ cần biết nghĩa chứ không cần biết mặt chữ Hán của những từ Hán - Việt (từ Việt gốc Hán). Chương trình học hiện nay vốn đã nặng nề, dạy thêm chữ Hán lại càng thêm nặng nề. Do vậy, để học sinh hiểu sâu sắc hơn tiếng Việt chỉ cần dạy từ Hán - Việt.
Hãy dạy những gì để người Việt không mắc những lỗi do thiếu hiểu biết về từ Hán - Việt.
1. Dạy những từ cơ bản, thường dùng trong đời sống và những từ có trong sách giáo khoa trung học.
2. Hiện tượng đồng âm giữa yếu tố Hán - Việt với yếu tố thuần Việt thường dẫn tới hiểu lầm nghĩa. Cần đặc biệt chú ý dạy nghĩa của lớp từ này.
Ví dụ: yếu, cứu vừa là từ Hán - Việt vừa là từ thuần Việt. Ấy vậy nên "yếu nhân" hiểu lầm là người yếu, còn "yếu điểm" là điểm yếu, nhược điểm, "cứu cánh" được hiểu là cứu vớt, cứu giúp. Từ Hán - Việt "yếu" có nghĩa là "quan trọng" (nghĩa này có trong chính yếu, cơ yếu, cần yếu, trích yếu, kỷ yếu, thiết yếu, yếu địa, yếu lĩnh, cốt yếu, thứ yếu...). Còn "cứu cánh" là "mục đích cuối cùng".
Có rất nhiều từ gần âm, do không hiểu nghĩa nên dễ dùng chệch sang một từ gần âm khác quen dùng: nhậm chức → nhận chức, kiểm sát → kiểm soát, tinh túy → tinh tú, ưu đãi → chiêu đãi, huy hiệu → danh hiệu, tham quan → thăm quan (hằng ngày chàng đội lốt gấu đi đi lại lại, làm một số trò cho khách thăm quan).
3. Ðặc biệt cần lưu ý những hiện tượng liên quan tới trật tự từ.
a. Không thấy tầm quan trọng của trật tự các yếu tố trong từ Hán - Việt nên có những cách hiểu mơ hồ, lầm lẫn ở nhiều người, kể cả những người cầm bút: nhân văn/ văn nhân, nhân tình/ tình nhân, thân nhân/ nhân thân, chính quốc/ quốc chính, công nhân/nhân công (ví dụ: Sáu đối tượng bị bắt tại chỗ trong số gần cả trăm nhân công tháo chạy tán loạn). Nhân công là "sức người" sao lại có thể tháo chạy được? Quốc đảo/đảo quốc (ví dụ: "Philippines, Indonesia là hai quốc đảo", lẽ ra "... là hai đảo quốc").
Những công việc cấp thiết cần làm
1. Nếu coi việc giảng dạy từ Hán-Việt là quan trọng và cấp thiết thì Bộ GD-ĐT không nên xây dựng những chương trình, những dự án cấp “quốc gia”, cấp “nhà nước” với những “hội đồng” này nọ đứng đầu là các nhà quản lý, theo kinh nghiệm sẽ lãng phí rất nhiều tiền của và thời gian, mà chất lượng sẽ không bằng dăm ba chuyên gia thực thụ soạn thảo đề cương rồi tổ chức cuộc thi viết sách dạy từ Hán - Việt cấp trung học. Như vậy sẽ có bộ sách giáo khoa tốt, có thể dạy kết hợp trong chương trình ngữ văn tăng cường.
2. Chỉnh lý, bổ sung những từ điển công cụ đã có về từ Hán - Việt và viết thêm những sách mới.
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, năm 1992, ghi rằng
đều là "người làm chứng". Thật ra chỉ
(thường cho những sự kiện lớn, "những chứng nhân lịch sử"), còn
Hầu như hiện nay mọi người đều dùng "nhân chứng" để chỉ "người làm chứng". Phải chăng vì
b. Khi nhập vào tiếng Việt, nhiều từ Hán - Việt được hiểu theo lối dùng thuần Việt dẫn tới khác trật tự tiếng Hán gốc. Ví dụ: nếu như tiếng Việt là thời tiền sử (thời kỳ chưa có sử), tiền khởi nghĩa (trước khởi nghĩa), tiền tư bản (trước chủ nghĩa tư bản) thì tiếng Hán là sử tiền, khởi nghĩa chi tiền, tư bản chủ nghĩa dĩ tiền.
Từ đây cần đặc biệt quan tâm tới những hiện tượng chuyển nghĩa, biến đổi của từ Hán - Việt. Chẳng hạn, từ những cách hiểu "dân gian", nhiều từ Hán - Việt biến đổi theo cái lý nào đó và nay được coi là chuẩn: chúng cư → chung cư, trú sở → trụ sở, thống kế → thống kê... (hàng loạt từ có yếu tố kế chỉ công cụ đo đạc: điện kế, nhiệt kế, áp kế, vôn kế, lực kế...).
Nhà cao tầng, hươu cao cổ là những từ thuần Việt, nhưng cách cấu tạo lại phỏng theo trật tự Hán - Việt: cao ốc, cao lâu (nhà có gác cao), cao đường (nhà lớn).
4. Cần dạy những thành ngữ, tục ngữ cơ bản gốc Hán, vì có quá nhiều người hiểu chúng rất lơ mơ: an nhiên tự tại (thư thái, không có điều gì lo phiền), bách bộ xuyên dương (Dưỡng Do Cơ thời Chiến quốc có tài bắn cung, cách trăm bước vẫn trăm phát trăm trúng lá liễu được chọn), bách niên giai lão (trăm tuổi đều già = lời chúc sống trọn đời bên nhau), ý tại ngôn ngoại (lời bên ngoài còn ý ở bên trong), xập xí xập ngầu (đọc theo âm Quảng Ðông của thành ngữ Hán thập tứ thập ngũ = lèm nhèm trong tính toán, bớt xén của người khác), vô kế khả thi (không cách gì giải quyết), ưu thời mẫn thế (ưu = lo, mẫn = thương xót, lo lắng đau lòng trước sự đời và thời cuộc), trầm tư mặc tưởng (trầm = chìm, mặc = im lặng, lặng lẽ tập trung suy nghĩ), nhất tự thiên kim (một chữ đáng ngàn vàng = văn chương tuyệt hay)...